Những chi nhánh Mamluk khác Mamluk

Có nhiều chi nhánh khác chiến binh Mamluk tại các quốc gia khác:

Ấn Độ

Vào năm 1206, người chỉ huy là mamluk của quân đội Hồi giáo ở Ấn Độ, Qutb-ud-din Aybak, tự tuyên bố mình là sultan, trên thực tế trở thành Sultan-e-Hind độc lập đầu tiên. Vương triều Mamluk này tồn tại cho đến năm 1290.

Iraq

Quân đoàn Mamluk được đưa vào sử dụng lần đầu tiên ở một phần của đế chế Ottoman mà bây giờ là Iraq bởi pasha Hasan của Bagdad năm 1702. Từ năm 1747 đến 1831 Iraq bị cai trị, với 1 khoảng thời gian ngắn tạm ngừng, bởi những sĩ quan Mamluk có nguồn gốc từ Gruzia, những người đã thành công trong việc đòi quyền tự trị từ Sublime Porte (tên gọi cung điện của triều đình Ottoman), đàn áp những cuộc khởi nghĩa của các bộ lạc, kiềm chế quyền lực của các Janissary và giới thiệu một chương trình hiện đại hóa nền kinh tế và quân sự. Năm 1831 đế chế Ottoman tìm được cách lật đổ pasha Daud, lãnh đạo Mamluk cuối cùng, và áp đặt sự thống trị trực tiếp lên Iraq.

Thuộc quyền Napoléon

Napoléon Bonaparte thành lập những quân đoàn mamluk riêng cho chính mình, lực lượng Mamluk được biết đến cuối cùng, vào những năm đầu của thế kỷ 19, và sử dụng những chiến binh mamluk trong một số chiến dịch của ông. Thậm chí cận vệ hoàng gia của ông cũng có những người lính Mamluk trong suốt chiến dịch Bỉ, bao gồm cả những người đầy tớ riêng thân cận. Vệ sĩ nổi tiếng của Napoléon, Roustam Raza là một Mamluk từ Ai Cập.

Suốt thời đại Napoleon, có một quân đoàn Mamluk đặc biệt trong quân đội Pháp. Đại tá kỵ binh Descaves thuật lại chi tiết Napoléon đã sử dụng quân Mamluk ở Ai Cập như thế nào. Trong cái gọi là "Những chỉ thị" mà Napoléon trao cho Jean Baptiste Kléber sau khi ra đi, Napoléon viết rằng ông đã mua từ các thương gia Syria khoảng 2000 chiến binh Mamluk những người mà ông định lập thành một biệt đội đặc biệt. Vào ngày 14 tháng 9 năm 1799 tướng Kleber đã thành lập một đại đội kỵ binh gồm những lính Mamluk và các Janissary bị bắt trong trận bao vây Acre.

Ngày 7 tháng 7 năm 1800 tướng Jacques-François Menou cải tổ lại đại đội, lập ra 3 đại đội mỗi đại đội có 100 lính và đổi tên là "Mamluk de la Respublique". Năm 1801, tướng Jean Rapp được gửi đến Marseille để tổ chức một đội kỵ binh gồm 250 Mamluk dưới sự chỉ huy của ông. Ngay 7 tháng 1 năm 1802 mệnh lệnh trước đó bị hủy và đội quân này giảm xuống còn 150 người. Theo sắc lệnh ngày 25 tháng 12 năm 1803 những Mamluk được tổ chức thành một đại đội được nhập vào với Chasseurs-à-Cheval của cận vệ hoàng gia.

Các chiến binh Mamluk đã chiến đấu tốt trong trận Austerlitz vào ngày 2 tháng 12 năm 1805. Một quy định ngày 15 tháng 4 năm 1806 định rõ lực lượng của đội kỵ binh là 13 sĩ quan và 147 người lính. Mặc dù sắc lệnh ngày 21 tháng 3 năm 1815 tuyên bố rằng không người ngoại quốc nào có thể được nhận vào làm cận vệ hoàng gia, nhưng Napoleon ra lệnh đội kỵ binh cận vệ hoàng gia phải bao gồm cả hai đại đội kỵ binh Mamluk trong chiến dịch Bỉ.

Quân phục của những chiến binh Mamluk

Trong suốt thời gian phục vụ trong quân đội Napoléon, đội kỵ binh Mamluk mặc những quân phục sau đây:

Trước năm 1804: Quân phục duy nhất là mũ xanh, khăn xếp trắng, và quần đỏ, tất cả được mặc cùng một cái áo chùng và áo lót. Giày ống có da mềm màu vàng, đỏ hay màu rám nắng. Vũ khí bao gồm một thanh mã tấu của phương Đông, một đôi súng lục trong một bao súng được trang trí với một hình trăng lưỡi liềm và ngôi sao bằng đồng thau, và một con dao găm.

Sau 1804: Mũ chuyển thành màu đỏ với trăng lưỡi liềm và ngôi sao bằng đồng thau, và áo khít lại và có cổ. Sự thay đổi chính là thêm một cuộn vải trên yên ngựa kiểu kỵ binh. Yên cương và áo giáp vẫn giữ theo kiểu Ả Rập.